Tại Hội nghị Văn hóa toàn
quốc tháng 11/2021 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đề ra 6 nhiệm vụ cần phải
làm, trong đó có nội dung: xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh
tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát
triển bền vững đất nước trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Cụ thể
hóa nhiệm vụ này, ngày 31/12/2021 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành
Quyết định 3611/QĐ-BVHTTDL phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số của Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Theo đó, sẽ đổi mới
căn bản, toàn diện hoạt động quản lý điều hành, hướng tới nâng cao chất lượng
phục vụ người dân và doanh nghiệp để đáp ứng yêu cầu đổi mới, phục vụ sự nghiệp
phát triển kinh tế-xã hội.
Đến nay
có thể khẳng định hệ thống cơ chế chính sách về chuyển đổi số trong lĩnh vực
văn hóa đã cơ bản được hoàn thiện, cơ sở hạ tầng số được tăng cường đầu tư, các
nguồn lực về con người và tài chính cũng được chú trọng.
Đáng
chú ý thời gian gần đây, nhiều hoạt động liên quan đến chuyển đổi số trong văn
hóa được triển khai hiệu quả. Công nghệ mới được ứng dụng trong nhiều hoạt
động, giúp người dân được tiếp cận dễ dàng hơn với các sản phẩm văn hóa. Tiêu
biểu có thể kể tới lĩnh vực di sản. Để bảo đảm hoàn thành các mục tiêu trong
Quyết định 2026/QĐ-TTg ngày 2/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương
trình số hóa Di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021-2030, ngành văn hóa đã chỉ
đạo sát sao việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về di sản văn hóa trên
nền tảng số.
Việt
Nam hiện có 41.000 di tích, thắng cảnh trong đó có hơn 4.000 di tích được xếp
hạng quốc gia và 9.000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh, cùng với 8.000 lễ hội...
Đây là một kho tàng di sản đồ sộ và khi được số hóa sẽ trở thành tài sản vô giá
phục vụ phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, nhất là du lịch, mang về giá
trị kinh tế lớn cho đất nước. Hiện một số địa phương tiên phong trong triển
khai thực hiện các giải pháp chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ số hóa 3D vào
khai thác, quản lý, lan tỏa giá trị di sản.
Tiêu
biểu như tại Hà Nội, chương trình thực cảnh về Văn Miếu-Quốc Tử Giám mang lại
sự hứng thú cho khách tham quan. Đặc biệt, từ tháng 5/2022 khu di tích nổi
tiếng của thủ đô đã triển khai hệ thống vé điện tử, thay đổi mô hình quản lý
vận hành tiện lợi, giảm tình trạng ùn tắc như khi còn triển khai bán vé thủ
công. Bảo tàng Lịch sử quốc gia cũng đã đưa hệ thống trưng bày ảo 3D vào phục
vụ du khách, mang lại những trải nghiệm mới mẻ cho người xem. Di tích Hoàng
thành Thăng Long có dự án xây dựng mô hình phục dựng điện Kính Thiên nhằm phục
vụ công tác bảo tồn di sản và phát triển du lịch.
Tại
Thừa Thiên Huế, Trung tâm bảo tồn Di tích cố đô sớm triển khai app hướng dẫn
tham quan cố đô. Tại khu vực Hoàng Thành, công nghệ thực tế ảo VR 3D cũng đã
được ứng dụng để du khách có cơ hội chiêm ngưỡng vẻ đẹp của di sản một cách
sống động. Tại Quảng Nam, khu di tích Mỹ Sơn cung cấp cho du khách một sản phẩm
trực tuyến thông qua hệ thống thế giới ảo công nghệ Metaverse - một hệ thống
dựa trên 3 nền tảng công nghệ gồm không gian trải nghiệm VR360, Metaverse spy
và Map 3D. Ở Thanh Hóa, khu vực Thành nhà Hồ, khu di tích lịch sử Lam Kinh cũng
đã áp dụng công nghệ thực tế ảo vào phục vụ khách tham quan...
Tuy
vậy, nhìn một cách tổng thể, chuyển đổi số văn hóa chưa diễn ra đồng đều ở các
lĩnh vực, các địa phương. Trong các lĩnh vực di sản, du lịch, bảo tàng, thư
viện… có nhiều thành tựu áp dụng công nghệ số nhưng trong các lĩnh vực khác như
điện ảnh, âm nhạc, sân khấu, văn học, nghệ thuật truyền thống… những ứng dụng
này vẫn còn khá hạn chế, manh mún, thiếu đồng bộ. Như lĩnh vực điện ảnh, hiện
có đề án “Trung tâm phát hành phim trực tuyến” sau đổi thành “Trung tâm phát
hành và phổ biến phim trực tuyến” theo Quyết định số 2649/QĐ-BVHTTDL ngày
18/10/2021 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nhưng hiện mới ở giai đoạn khởi
động.
Trong
âm nhạc, bước đầu có thể ghi nhận chuyển đổi số phát huy tốt hiệu quả trong
lĩnh vực quyền tác giả. Song ở lĩnh vực sân khấu, nhất là sân khấu truyền thống
đang rất cần ứng dụng công nghệ số vào việc lưu giữ các tư liệu phục vụ cho đào
tạo và biểu diễn nhưng hiện chưa có dự án nào.
Nhìn ở
góc độ địa phương có thể thấy, các địa phương và thành phố lớn như Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Ninh… nơi có nhiều di sản
văn hóa gắn với du lịch đã và đang làm tốt, đồng bộ công tác chuyển đổi số.
Tuy
nhiên tại một số địa phương, nhất là khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số vẫn còn khá xa lạ với cụm từ “chuyển đổi số” trong văn hóa. Nguyên
nhân là do thiếu cơ sở vật chất hạ tầng mạng, trang thiết bị còn nghèo nàn,
nguồn nhân lực thiếu và yếu, kinh phí hạn hẹp... Chuyển đổi số ở một số địa
phương còn nhỏ lẻ, tự phát, chưa đồng bộ, chưa xây dựng được hệ sinh thái phần
mềm chung hệ thống dữ liệu để áp dụng xuyên suốt. Một khó khăn khác nữa liên
quan đến nhận thức của người đứng đầu các địa phương và người phụ trách lĩnh
vực văn hóa.
Tại Hội
nghị-Hội thảo “Chuyển đổi số của ngành văn hóa thể thao và du lịch” diễn ra vào
tháng 10/2022, ông Lê Xuân Kiêu - Giám đốc Trung tâm Hoạt động Văn hóa khoa học
Văn Miếu-Quốc Tử Giám (Hà Nội) cho rằng ở một số nơi, cán bộ và lãnh đạo chưa
thay đổi nhận thức khi cho rằng chuyển đổi số sẽ làm mất công việc của người
lao động.
Về vấn
đề cơ chế, chính sách, một số chuyên gia đánh giá, vẫn còn sự chồng chéo, chưa
thật sự thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho các lĩnh vực, các địa phương
triển khai hoạt động chuyển đổi số. Trong bối cảnh nguồn kinh phí đầu tư cho
chuyển đổi số còn hạn hẹp, một số địa phương, một số lĩnh vực còn lúng túng,
chưa tìm ra vấn đề cốt lõi cần ưu tiên dẫn đến đầu tư dàn trải và hiệu quả
không rõ rệt.
Chuyển
đổi số là xu hướng tất yếu, cần thiết mà mỗi quốc gia phải thực hiện trong thời
kỳ công nghệ 4.0 phát triển hiện nay. Văn hóa là vấn đề nền tảng, cốt lõi, càng
không thể đi chậm và đi sau các lĩnh vực khác. Chuyển đổi số, ứng dụng các
thành tựu khoa học-kỹ thuật mới vào bảo tồn, gìn giữ, phát triển, lan tỏa các
giá trị văn hóa, mở ra những cánh cửa lớn để thế giới biết nhiều hơn về nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc.
Với
người dân, khi các giá trị văn hóa được số hóa trên các nền tảng mạng, việc
tiếp cận và sáng tạo văn hóa sẽ trở nên dễ dàng hơn. Khi đó văn hóa không chỉ
có ý nghĩa là nền tảng tinh thần mà còn là một tiềm lực trong phát triển kinh
tế-xã hội. Vì vậy, muốn xây dựng một nền công nghiệp văn hóa thành công thì cơ
sở quan trọng nhất là phải chuyển đổi số văn hóa thành công.
Trên
thực tế đến thời điểm này, việc chuyển đổi số trong văn hóa phần lớn mới chỉ
dừng lại ở mức tiếp cận cơ bản ban đầu như số hóa các dữ liệu, tư liệu hiện vật
dưới dạng thông tin. Sau một thời gian thực hiện, nhiều khó khăn bộc lộ đòi hỏi
các giải pháp căn cơ, đồng bộ của ngành văn hóa và của từng địa phương. Do đó
cần bắt đầu từ việc thay đổi tư duy, nhận thức của người đứng đầu, xem chuyển
đổi số là vấn đề quan trọng, cấp thiết nhằm nâng tầm văn hóa và mang lại lợi
ích cho người dân, hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, của đất
nước.
Trong
chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025 định hướng đến năm 2030 được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 749 ngày 3/6/2020 khẳng định
quan điểm: “Nhận thức đóng vai trò quyết định trong chuyển đổi số”. Sở dĩ cần
nhấn mạnh một lần nữa vấn đề nhận thức, bởi nếu đi nhanh, đi sớm trong chuyển
đổi số sẽ dễ thu hút các nguồn lực, không bị bỏ lỡ cơ hội phát triển một cách
đáng tiếc. Điều này không chỉ đúng trong văn hóa mà còn đúng với nhiều ngành,
lĩnh vưc khác.
Cùng
với đó, khoa học-kỹ thuật luôn phát triển không ngừng nên các công cụ hỗ trợ
thiết bị máy móc cần liên tục cập nhật. Nhà nước, ngành văn hóa cần đầu tư các
nền tảng công nghệ lõi, là những nền tảng xương sống, cơ bản nhất để các địa
phương, doanh nghiệp, người dân có thể dựa vào đó hoàn thiện, đồng bộ cũng như
phát triển hạ tầng công nghệ.
Chính
sách cho quá trình chuyển đổi số cần phù hợp, cho phép đa dạng nguồn kinh phí,
nhất là kinh phí xã hội hóa. Do con người là trung tâm của các hoạt động văn
hóa, nên chuyển đổi số trong văn hóa càng cần thiết việc đầu tư vào con người.
Bởi nếu không có nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ rất khó để chuyển đổi số thành
công.
Hơn
nữa, văn hóa là một ngành rất rộng, đa dạng các loại hình do đó cần những
chuyên gia không chỉ hiểu sâu về chuyên môn mà còn thành thạo các kỹ năng công
nghệ, có thể nắm bắt, thực hành các thành tựu cũng như xu hướng công nghệ hiện
đại. Muốn như vậy phải có kế hoạch, chiến lược đào tạo nhân lực đáp ứng được
những đòi hỏi của thời kỳ mới./.