PHẦN I. TÊN GỌI DI TÍCH
Di tích có các tên gọi như sau:
1. Đền Đinh triều: Vì di tích là nơi thờ cúng và tưởng niệm Lịch Lộ Đại
vương, nhân vật lịch sử triều Đinh có công phù giúp Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp và
thu phục 12 sứ quân.
2. Đền Hành Phúc: Vì đền được xây dựng ở địa phận làng Hành Phúc xưa (nay
là thôn Phú Hải, xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh). Nhân dân lấy tên làng đặt cho
đền.
Theo biên bản Hội nghị thông qua di tích tại địa phương, thống nhất tên
gọi di tích là đền Hành Phúc, xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.
PHẦN II. ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ VÀ ĐƯỜNG
ĐI ĐẾN DI TÍCH
1. Địa điểm phân bố.
Đền
Hành Phúc hiện nay thuộc thôn Phú Hải, xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh
Bình.
Xã
Khánh Phú nằm cách thành phố Ninh Bình 5km về phía đông nam. Phía Đông Bắc giáp
huyện Ý Yên (tỉnh Nam Định), phía Đông Nam giáp xã Khánh An (huyện Yên Khánh),
phía Tây Bắc giáp xã Ninh Phúc (thành phố Ninh Bình), phía Tây Nam giáp xã
Khánh Hòa (huyện Yên Khánh).
Hiện
nay, xã Khánh Phú gồm 8 thôn: Phú An, Phú Long, Phú Tân, Phú Hải, Phú Hào, Phú
Cường, Phú Bình và Phú Sơn.
Theo
thần phả, truyền thuyết và các thư tịch khác hiện lưu truyền ở địa phương,
Khánh Phú là vùng đất được hình thành từ khá sớm do lượng phù sa của sông Đáy
(một nhánh của sông Hồng) bồi đắp. Đến thế kỷ X xóm làng đã dần trở nên đông
đúc, phồn thịnh. Trải qua các thời kỳ lịch sử, vùng đất có nhiều thay đổi về
địa danh hành chính:
Thời
Đinh - Tiền Lê thuộc châu Đại Hoàng;
Thời Lý (1010 - 1225)
thuộc phủ Trường Yên;
Thời
Trần (1225 - 1400) thuộc huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên;
Thời
thuộc Minh (1328 - 1407) thuộc châu Trường Yên, phủ Kiến Bình;
Thời
Mạc (1527 - 1593), vùng đất thuộc huyện Yên Khang, lệ vào Thanh Hoa ngoại trấn;
Thời
Nguyễn, năm Gia Long thứ 2 (1803) di tích thuộc huyện Yên Khánh, phủ Trường Yên,
đạo Thanh Bình; năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) đổi tên đạo Thanh Bình thành đạo
Ninh Bình, di tích thuộc xã Yên Vệ, tổng Yên Vệ, huyện Yên Khánh, phủ Trường
Yên, đạo Ninh Bình; năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) đạo Ninh Bình đổi thành trấn
Ninh Bình, năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) đổi trấn Ninh Bình thành tỉnh Ninh Bình.
Trước
Cách mạng tháng Tám năm 1945, địa bàn xã Khánh Phú gồm 2 xã: Yên Vệ và Hào Phú.
Tháng 3/1946, xã Yên Vệ và Hào Phú hợp nhất lấy tên là xã Yên Vệ.
Năm
1949, xã Yên Vệ hợp nhất với xã Tân An và Khương Du thành xã Khánh Hòa. Hòa
bình lập lại, xã Khánh Hòa lại tách thành 3 xã là Khánh Hòa, Khánh An và Yên
Vệ, sau đó xã Yên Vệ đổi thành xã Khánh Phú. Địa danh xã Khánh Phú có từ đấy.
Năm
1976, hợp nhất 2 tỉnh Ninh Bình và tỉnh Nam Hà thành tỉnh Hà Nam Ninh. Di tích
thuộc xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh, tỉnh Hà Nam Ninh.
Năm
1977, 9 xã phía Tây Bắc huyện Yên Khánh ([1])
sáp nhập vào huyện Yên Mô, thành lập huyện Tam Điệp. Di tích thuộc xã Khánh
Phú, huyện Tam Điệp, tỉnh Hà Nam Ninh.
Năm
1992, tỉnh Ninh Bình được tái lập. Năm 1994, huyện Yên Khánh được tái lập. Từ
đó đến nay, di tích thuộc xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình.
2. Đường đi tới di tích.
Từ
trung tâm thành phố Ninh Bình, theo đường quốc lộ 10 (hướng đi Kim Son) khoảng 5km
đến địa phận thôn Phú Hải, xã Khánh Phú là đến di tích.
Tuyến
đường bộ trên là thuận tiện nhất, có thể đến di tích bằng ô tô.
PHẦN III. PHÂN LOẠI DI TÍCH
Đền
Hành Phúc là nơi thờ phụng thần Lịch Lộ Đại vương - nhân vật lịch sử thời Đinh
(thế kỷ X), có công giúp Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp, thu phục 12 sứ quân, thống nhất
giang sơn, lập nên nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở nước ta.
Căn cứ vào tiêu chí xếp hạng, căn cứ vào Điều 11 Nghị định 98/2010/NĐ-CP ngày
21/9/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản
văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa thì di tích
đền Hành Phúc thuộc loại hình di tích lịch sử.
PHẦN IV. SỰ KIỆN, NHÂN VẬT LỊCH SỬ, ĐẶC ĐIỂM CỦA DI TÍCH
1. Nhân vật thờ cúng tại di tích: Lịch Lộ
Đại vương
Theo
bản thần tích “Yên Vệ xã Hành Phúc miếu
tôn thần sự tích” lưu giữ tại di tích, thân thế và sự nghiệp của Lịch Lộ
Đại vương được tóm lược như sau:
Lịch
Lộ Đại vương huý là Cao Lịch, sinh ngày 15 tháng 12 năm Bính Thân, mất ngày 15
tháng 10. Tổ tiên vốn là người ở trang Đồng Thời, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa
Hưng, đạo Sơn Nam (nay là huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định) đến trông coi chùa
Yên Bạc đã hai đời. Thân phụ của ông là Cao Điện, hành nghề phù thuỷ, lấy đức
làm gốc; thân mẫu là Hàn Thị Tú. Ông bẩm tính thông minh, văn chương xuyên
thấu, võ nghệ toàn tài, trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, không có việc
gì là không biết, không có việc gì là không hiểu. Năm 22 tuổi, cha mẹ đều qua
đời. Ông cùng với em trai là Cao Khiển (Hành Khiển đại vương) phụng thờ hương
hoả hiếu kính suốt 3 năm. Khi nghe tin Đinh Bộ Lĩnh khởi binh ở động Hoa Lư,
hai anh em đến yết kiến, ông được Đinh Bộ Lĩnh cử làm Tiền bộ Tướng quân, ông
Khiển làm Tán chỉ huy sứ giả và sai về các đạo để chiêu mộ quân lính. Hai ông trở
về trang Yên Bạc lập đồn, chiêu binh, phát hịch kêu gọi hào kiệt, dân chúng
trong vùng đồng tâm báo quốc, giương cao trượng nghĩa dẹp hung tàn. Chỉ trong
vòng 10 ngày đã ứng mộ được hơn 3 nghìn người. Hai ông đem toàn bộ binh mã kéo
về hội quân dưới cờ nghĩa của Đinh Bộ Lĩnh, được Đinh Bộ Lĩnh giao cho tiến
đánh Kiều Công Hãn - một trong mười hai sứ quân cát cứ đóng ở Phong Châu. Một
lần, khi Đinh Bộ Lĩnh đem quân đi đánh sứ quân Đỗ Cảnh Thạc ở động Đỗ Giang đã
bị Đỗ Cảnh Thạc vây chặt. Trong lúc nguy cấp, hai anh em ông đã đem quân đến
giải vây và thừa thắng tấn công tiêu diệt Đỗ Cảnh Thạc tại động Đỗ Giang, góp
công giải nguy cho Đinh Bộ Lĩnh.
Sau
khi thu phục 12 sứ quân, thống nhất đất nước, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế,
ban thưởng cho các công thần. Hai ông được nhà vua ban cho đất thực ấp ở trang
Yên Vệ (xã Khánh Phú ngày nay) và miễn các việc binh dao cho nhân dân. Về quê
hương, hai ông mở yến khao thưởng nhân dân, xây dựng phong tục tốt đẹp, ngày
càng làm cho dân làng thịnh vượng. Ngày 15 tháng 10, ông Lịch công không bệnh
mà hoá. Lúc ông mất, trời đất nổi phong ba, sấm chớp liên hồi nhập vào chỗ ông
ngồi. Trong chốc lát, trời quang mây tạnh, sấm chớp ngưng hẳn thì không thấy
ông đâu nữa, chỉ còn lại mũ và ngựa. Nhà vua thương xót, ban sắc phong cho ông
là Lịch Lộ Đại vương, lệnh cho nhân dân xã Yên Vệ rước thần hiệu về lập đền thờ
phụng.
Như
vậy, Lịch Lộ Đại vương là người có công phù giúp Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp và thu
phục 12 sứ quân, lập nên nhà nước Đại Cồ Việt. Ghi nhận công lao to lớn của ông,
nhân dân nhiều nơi tưởng nhớ, lập đền thờ ông. Theo kết quả danh mục kiểm kê di
tích năm 2020 cho biết, trên địa bàn tỉnh Ninh Bình có 07 di tích thờ Lịch Lộ
Đại vương. Các di tích thờ ông tập trung chủ yếu ở huyện Yên Khánh - là quê
hương của ông đồng thời cũng là vùng đất thực ấp (đất vua ban) cho ông trước
đây, tiêu biểu như: đình Yên Phú (xã Khánh An - di tích lịch sử văn hoá cấp
tỉnh năm …), đền Đức Đệ Nhị (xã Khánh An - di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh
năm…), đền Rậm, đền Trung (xã Khánh Hoà), đền Hành Phúc (xã Khánh Phú)…
Tại
đền Hành Phúc, ông được thờ ở gian chính giữa toà Hậu cung với vai trò là vị
thần bảo trợ, che chở cho dân làng. Di tích còn lưu giữ 02 đạo sắc phong thời
Nguyễn ban cho xã Yên Vệ thờ phụng vị thần Lịch Lộ Đại vương.
2. Các nhân vật thờ cúng khác:
- Thờ công đồng.
- Thờ quan Văn, quan Võ.
B. Sự kiện liên quan tới di tích:
Trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước, đền Hành Phúc không chỉ là địa
điểm sinh hoạt văn hoá tâm linh của cộng đồng nhân dân mà còn là nơi ghi dấu
nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của địa phương.
1. Di tích trong thời kỳ kháng chiến chống
thực dân Pháp (1946-1954)
Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, phong trào cách mạng
của nhân dân Ninh Bình nói chung và xã Khánh Phú nói riêng gặp nhiều khó khăn
do sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động.
Từ
năm 1949-1951, thực dân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng. Tháng 10/1949, sau khi
nhảy dù xuống Phát Diệm, địch thực hiện chiến dịch vết dầu loang, mở rộng địa
bàn chiếm đóng ở Yên Mô, Yên Khánh. Đánh chiếm đến đâu chúng cho xây dựng đồn
bốt, chiếm giữ các vị trí xung yếu đến đó. Xã Khánh Phú nằm trong vùng tạm
chiến, xung quanh có hệ thống đồn bốt dày đặc của thực dân Pháp như: bốt Cầu Vệ,
chùa Dầu, chùa Hựu và các đồn giáp ranh như: đồn Ninh (Yên Phúc), chùa Cao (Yên
Cư), Vĩnh Trị (giáp nhà thờ Hào Phú)... Dù thường xuyên bị đạn pháo của địch từ
các bốt trên bắn phá, nhưng với sự bảo vệ của nhân dân, di tích vẫn là một
trong những địa điểm diễn ra các cuộc họp bí mật của chi bộ Khánh Hoà.
Sau
cách mạng tháng Tám năm 1945, hưởng ứng phong trào bình dân học vụ, đền Hành
Phúc cũng trở thành địa điểm dạy học.
2. Di tích trong thời kỳ kháng chiến chống
Mỹ (1954 - 1975)
Sau khi miền Bắc được
giải phóng (1954), trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu
tranh chống Đế quốc Mỹ ở miền Nam, đền Hành Phúc là nơi tập kết vũ khí, lương
thực để vận chuyển vào chiến trường miền Nam.
Năm 1964, đế quốc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, đền Hành
Phúc là nơi sơ tán của nhà máy điện Ninh Bình.
3. Di tích trong thời kỳ hoà bình
Ngày
nay, trong bối cảnh hòa bình, kinh tế ổn
định, phát triển, các hoạt động văn hóa, tinh thần được khôi phục, di tích trở
thành trung tâm sinh hoạt văn hóa tâm linh hấp dẫn, thu hút đông đảo nhân dân
trong và ngoài xã về tham quan, chiêm bái.
Cùng với mảnh đất và con người nơi đây, đền Hành
Phúc đã góp phần tô điểm thêm truyền thống yêu nước, ý chí kiên cường bất khuất
của nhân dân làng Hành Phúc xưa (Phú Hải nay) trong cuộc đấu tranh giành độc
lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
PHẦN V. SINH HOẠT VĂN HÓA TÍN NGƯỠNG LIÊN
QUAN ĐẾN DI TÍCH.
Hàng
năm, tại di tích diễn ra các hoạt động văn hoá, lễ hội chính như sau (tính theo
âm lịch):
1. Lễ hội làng: diễn ra vào ngày mồng 4
tháng Giêng. Đây là lễ hội lớn nhất trong năm.
Trước
đây, lễ hội diễn ra trong 3 ngày, từ ngày mồng 4 đến ngày mồng 6 tháng Giêng.
Lễ hội gồm có hai phần: phần lễ và phần hội.
Phần
lễ được tổ chức rất trang trọng theo nghi lễ truyền thống như: lễ yết cáo, lễ
rước kiệu, lễ tế và lễ tạ. Sau khi tổ chức lễ yết cáo thỉnh mời các vị thần
linh về tham dự buổi lễ, nhân dân tiến hành rước kiệu về đền Thượng (thôn Phú
An) để tổ chức lễ hợp tế, sau đó rước kiệu đi xung quanh làng rồi trở về di tích
tổ chức tế lễ và mở hội. Trước khi tổ chức tế lễ, còn có nghi lễ rước nước từ
sông Đáy về. Sau đó là tục dâng bánh dày để tổ chức cuộc thi, xem bánh thôn nào
ngon và đẹp nhất. Chiều ngày mồng 6 tổ chức lễ tạ, kết thúc lễ hội.
Phần
hội diễn ra sôi nổi với nhiều trò chơi dân gian truyền thống như: đấu vật, bơi
thuyền, chọi gà, cờ người, ném bóng trên sông, kéo co…
Trải
qua nhiều biến động lịch sử, các hoạt động sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng diễn ra
tại đền cũng đã bị mai một. Hiện nay, các kỳ lễ cơ bản đã được phục hồi phần lễ,
phần hội chỉ tổ chức thi đấu vật.
2. Ngày hoá Lịch Lộ đại vương: diễn ra
vào ngày 15 tháng 10. Chiều ngày 14, nhân dân làm lễ cáo yết mời Thánh, thần
linh về dự. Ngày 15 là ngày chính kỵ. Sau nghi thức dâng hương của 5 thôn Phú
Hải, Phú Bình, Phú Cường, Phú Sơn và Phú Tân là nghi thức tế nam quan và nữ
quan.
3. Ngày sinh Lịch Lộ đại vương: diễn ra
vào ngày 15 tháng 12. Nhân dân tổ chức tế nam quan và tế nữ quan.
4. Các lễ tiết khác: ngoài những sinh
hoạt văn hoá tín ngưỡng kể trên, hàng năm tại di tích còn diễn ra các lễ tiết
khác như:
Lễ tiết năm mới: được
cử hành vào dịp Tết Nguyên đán từ ngày mồng 1 đến mồng 3 tháng Giêng. Lễ mở cửa
đền (ngày mồng 1 tháng Giêng), tế tạ (ngày mồng 3 tháng Giêng).
Tiết khai hạ: diễn
ra vào ngày mồng 7 tháng Giêng. Lễ cúng đầu mùa hạ, cầu mong các Thần phù trợ
cho vụ mùa bội thu. Đây là lễ khá phổ biến với cư dân nông nghiệp.
Lễ Chạp: diễn ra
vào ngày 16 tháng 12.
Lễ mộc dục: diễn
ra vào ngày 24 tháng 12.
Các ngày rằm, mồng một hàng tháng, các lễ tiết trong năm
nhân dân và du khách đều về dâng lễ, chiêm bái.
PHẦN VI. GIÁ TRỊ CỦA DI TÍCH
Di tích là
nơi thờ vị thần Lịch Lộ Đại vương, nhân vật có công trạng lớn cùng các bậc hào
kiệt đương thời (được ghi trong chính sử) như Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ,
Trịnh Tú, Phạm Hạp, Phạm Cự Lạng, Phạm Bạch Hổ…. bên cạnh một số nhân vật khác
trong bộ máy chính quyền nhà Đinh buổi đầu (dù chỉ được ghi chép trong các thần
tích, thần phả, bi ký… của cộng đồng) như sứ quân Trần Lãm, Tả bộ xã Lê Lương
(nguyên là một thổ hào lớn ở Thanh Hoá), và Kiến Nghĩa hầu Nguyễn Tấn (Nam
Định)… phò tá Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp và thu phục 12 sứ quân, chấm dứt nội chiến,
thống nhất bờ cõi, thành lập nhà nước Đại Cồ Việt, nhà nước phong kiến trung
ương tập quyền đầu tiên trong lịch sử dân tộc. Tại đền Hành Phúc, ngài được thờ
với vai trò một vị thần bảo trợ, phù giúp nhân dân trong cuộc sống. Tìm hiểu về
di tích và nhân vật thờ cúng tại di tích giúp chúng ta hiểu thêm về bối cảnh
lịch sử thế kỷ X; đồng thời góp phần bổ sung vào hệ thống thờ tự các nhân vật
lịch sử liên quan đến thời kỳ nhà Đinh trên địa bàn tỉnh Ninh Bình hiện nay.
Đền Hành Phúc mặc dù mới được xây dựng lại
nhưng tại di tích còn lưu giữ được nhiều di vật, cổ vật có giá trị: bát hương, câu
đối, hoành phi, mũ, hia… đặc biệt là 02 đạo sắc phong thời Nguyễn phong cho Lịch
Lộ Đại vương. Đây là những chứng cứ vật chất quan trọng góp phần tìm hiểu về
quá trình hình thành của di tích nói riêng và lịch sử văn hoá xã hội của vùng
đất nói chung.
Đền Hành Phúc còn là nơi ghi dấu nhiều sự
kiện lịch sử quan trọng của địa phương. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, di tích là địa điểm diễn ra các cuộc họp bí mật của chi
bộ đảng Yên Vệ; là nơi tổ chức lớp bình dân học vụ; nơi tập kết vũ khí, lương
thực để vận chuyển vào chiến trường miền Nam… Vì vậy, đền Hành Phúc không chỉ
là nơi lưu giữ những giá trị văn hoá vật chất, tín ngưỡng truyền thống tốt đẹp
của nhân dân, mà còn là nơi để giáo dục về lòng yêu quê hương đất nước, tinh
thần đấu tranh bất khuất, kiên cường của cha ông để bảo vệ quê hương. Để từ đó
thế hệ trẻ hôm nay ý thức được trách nhiệm của mình trong việc lưu giữ và ngày
càng phát huy tốt hơn những giá trị lịch sử, văn hoá truyền thống của cha ông,
đoàn kết, chung sức, chung lòng xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc, xây dựng
quê hương ngày càng giàu đẹp.
Ngoài giá trị lịch sử, đền Hành Phúc còn là
nơi bảo lưu, trao truyền những giá trị văn hoá phi vật thể thông qua thực hành
thờ cúng, tế lễ. Hàng năm, ngoài các ngày lễ như: lễ Khai hạ (mồng 7 tháng
Giêng âm lịch), ngày hoá thần (15/10 âm lịch), ngày sinh thần (15/12 âm lịch),
lễ Chạp (16/12 âm lịch), lễ hội truyền thống diễn ra vào ngày mồng 4 tháng
Giêng âm lịch là lễ lớn nhất. Những sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra tại
di tích thể hiện truyền thống yêu nước, đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc,
đồng thời đáp ứng nhu cầu tâm linh của nhân dân địa phương.
PHẦN VII. THỰC TRẠNG BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH
Đền
Hành Phúc vốn được khởi dựng từ lâu đời. Theo các cụ cao niên trong làng kể
lại, trước đây đền toạ lạc tại Giếng Vàng (nay thuộc thôn Phú Cường) với kiến
trúc kiểu chữ Đinh (chuôi vồ) gồm 2 toà Tiền đường và Hậu cung. Các cấu kiện vì
kèo, hoành, rui, mè đều bằng gỗ lim. Hệ thống cột bằng gỗ, kê trên tảng đá cổ
bồng. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946-1954), đền bị phá huỷ. Đến năm
1992, đền được xây dựng lại và chuyển ra vị trí như hiện nay. Thượng lương toà
Tiền đường ghi “Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam Nhân Thân niên tứ nguyệt thập lục nhật trùng tân miếu vũ thụ trụ
thượng lương đại cát” (nghĩa là: Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
ngày 16 tháng 4 năm Nhâm Thân (1992) xây mới lại dựng thượng lương đại cát).
Tại di tích đã thành lập Ban khánh tiết do ông Lê Văn Bình làm Trưởng ban.
Ban khánh tiết có nhiệm vụ sưu tầm tài liệu liên quan tới di tích, bảo vệ và phát
huy giá trị của di tích.
Về mặt pháp lý, di tích đền Hành Phúc đã được cấp có thẩm quyền cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất với diện
tích 160m2 (thửa đất số 65,
tờ bản đồ số 7), mang tên đền Hành Phúc. Có thể nói, tính đến thời điểm hiện
nay, di tích được chính quyền địa phương và nhân dân quan tâm, bảo vệ tốt, nhằm
phát huy tác dụng của di tích, góp phần giáo dục lòng tự hào, lòng yêu quê
hương, đất nước đối với các thế hệ con cháu.
PHẦN IIX. PHƯƠNG HƯỚNG BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH
Qua thực trạng bảo vệ và khảo sát tại di tích, chúng tôi đề xuất phương
hướng bảo vệ và phát huy giá trị di tích nhằm bảo tồn bền vững di tích gắn với
việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương như sau:
- Trước hết, việc quản lý, bảo tồn, tôn tạo và phát huy tác dụng của di
tích phải đảm bảo các quy định của Luật Di sản văn hóa, Luật Tín ngưỡng, tôn
giáo và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
- Hai là, tiếp tục quan tâm sưu tầm các giá trị văn hoá phi vật thể gắn
với di tích như: thư tịch, truyền thuyết dân gian, lễ hội truyền thống… để
nghiên cứu làm sáng tỏ thêm các nguồn thông tin sử liệu về thân thế, sự nghiệp
của các nhân vật được thờ cũng như phong tục, tập quán, tín ngưỡng của người
dân xã Khánh Phú nói riêng, người dân Ninh Bình nói chung trong tiến trình lịch
sử dân tộc. Bên cạnh đó, cần khôi phục các nghi lễ, trò chơi dân gian trong lễ
hội đã bị mai một tạo sự hấp dẫn của lễ hội và thu hút sự tham gia của người
dân vào các hoạt động của lễ hội, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần
ngày càng cao của các tầng lớp nhân dân và du khách thập phương.
- Ba là, phát huy vai trò của cộng đồng trong việc bảo tồn di tích. Nâng
cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền quảng bá di tích trên các phương tiện thông
tin đại chúng nhằm giáo dục cho các tầng lớp nhân dân về việc bảo tồn, phát huy
giá trị của di tích.
- Bốn là, liên kết với các điểm du lịch và các di tích lịch sử văn hoá đã
được xếp hạng trên địa bàn xã như: đền Thượng và chùa Phúc Long, đền thôn Lê,
nhà thờ Nguyễn Văn Đức, để nghiên cứu xây dựng thành các tuyến, điểm, khu du
lịch tại địa phương phục vụ nhu cầu tham quan, chiêm bái của du khách trong và
ngoài tỉnh.
- Năm là, đề nghị các cấp có thẩm quyền cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất theo tên gọi của di tích.
PHẦN IX. KẾT LUẬN
Thể
theo nguyện vọng của nhân dân và đề nghị của các cấp chính quyền địa phương tại
Tờ trình số 80/TTr-UBND ngày 28 tháng 5 năm 2024 của Uỷ ban nhân dân
huyện Yên Khánh về việc đề nghị xếp hạng di tích lịch sử, văn hoá cấp tỉnh đền
Hành Phúc, xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh; Căn cứ vào những giá trị khoa
học, lịch sử của di tích, phòng Quản lý Di sản Văn hoá, Sở Văn hoá và Thể thao
phối hợp với địa phương lập hồ sơ khoa học, đề nghị Hội đồng khoa học xét duyệt
xếp hạng di tích tỉnh Ninh Bình xem xét, trình Uỷ ban nhân dân tỉnh xếp hạng đền
Hành Phúc, xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh là di tích lịch sử văn hóa cấp
tỉnh.

